Bệnh u máu trên da là một bệnh lý mạch máu thường gặp ở trẻ em; 59% xuất hiện khi mới sinh, 40% trong tháng đầu, 30% ở trẻ đẻ non dưới 1,8kg cân nặng.
Cần phân biệt u máu (Hemangioma) với dị dạng mạch (Vascular Malformation) do đặc điểm bệnh học và sinh học hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, cần chẩn đoán đúng và có hướng điều trị thích hợp cũng như tiên lượng trước, sau điều trị.
Bệnh U máu là do tăng sinh tế bào nội mạch tiến triển qua 3 giai đoạn: tăng sinh, ổn định, thoái triển.
Bệnh dị dạng mạch là kích thước thể tích mạch, độ chun giãn không bình thường, không có sự tăng sinh bất thường của tế bào nội mạch, mạch lớn lên tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng của trẻ, tiến triển có thể đơn giản, phức tạp hoặc phối hợp. Dị dạng mạch có thể là mao mạch, bạch mạch, tĩnh mạch, động mạch.
Nguyên nhân bệnh
Có nhiều giả thuyết liên quan đến căn nguyên gây u máu:
Từ phôi thai, do di tích của trung bì phôi thai
Do nhiễm virus gây u nhú trên người, tiếng Anh còn gọi Human Papuloma virus (HPV) gây mất kiểm soát điều hòa tăng sinh tế bào nội mạch của mạch máu.
Do nội tiết: người ta thấy nồng độ cao của 17-Beta Estradiol ở trẻ u máu.
Heparine do các dưỡng bào tiết ra gây kích thích tế bào sợi và tế bào nội mạch tăng ở các trẻ u máu.
Đối với u máu thường thoái triển tự phát ở tuổi 5-12 (75-80%) không để lại di chứng. Cần theo dõi vị trí, kích thước, tốc độ phát triển, có thể điều trị bằng Laser, đốt điện…
Đối với u máu có thể gây biến chứng nặng và gây nguy hiểm cho trẻ như u máu mi mắt trên gây chèn ép nhãn cầu, u máu lan tỏa dạng giãn mao mạch thường có biến chứng loét.
U máu hình râu quai nón vùng cổ gây chèn ép đường hô hấp… cần được theo dõi để có biện pháp xử lý như cắt bỏ, nút mạch máu…
Một số phương pháp điều trị khác như tia xạ, áp lạnh bằng khí nitơ lỏng ở nhiệt độ âm, corticoids, laser có bước sóng 1062nm đối với các bớt máu nông, phẫu thuật cắt bỏ, tạo hình vạt da…